LAO CUNG
Tên
Huyệt:
Tay làm việc không biết mệt (lao). Huyệt
lại nằm giữa lòng bàn tay (giống như nhà lớn = cung) vì vậy
gọi là Lao Cung (Trung Y Cương Mục).
Tên
Khác:
Chưởng Trung, Qủy Lộ, Qủy Quật.
Xuất Xứ:
Giáp
Ất Kinh.
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 8 của kinh Tâm bào.
+ Huyệt Vinh, thuộc hành Hoả .
+ Một trong ‘Thập Tam Quỷ Huyệt’ (Quỷ
Quật) dùng trị bệnh tâm thần.
Vị
Trí:
tay, nơi khe của ngón giữa và ngón vô danh (ngón 4) chạm vào
đường văn này hoặc gấp các ngón tay vào lòng bàn tay, đầu
ngón tay giữa chạm vào đường nếp gấp giữa lòng bàn tay (đường
tâm đạo) ở đâu thì đó là huyệt.
Giải Phẫu:
Dưới da là cân tay giữa, cơ giun, phía
trong gân gáp ngón giữa của cơ gấp chung ngón tay nông và
sâu, cơ gian cốt gan tay và cơ gian cốt mu tay, bờ trong đầu
dưới xương bàn tay 3.
Thần kinh vận động cơ là nhánh của dây
thần kinh giữa và dây thần kinh trụ.
Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn
thần kinh C7 hoặc C8.
Tác Dụng:
Thanh
Tâm Hoả, an thần, trừ thấp nhiệt.
Chủ Trị:
Trị
mồ hôi tay, eczema ở vùng bàn tay, vùng tim đau, động kinh,
nấc, xoang miệng viêm.
Châm Cứu:
Châm thẳng từ lòng bàn tay hướng về phía
lưng bàn tay đối diện 0, 3 – 0, 5 thốn. Cứu 1 – 3 tráng, ôn
cứu 5 – 10 phút.
Tham Khảo:
Thường phối huyệt Lao Cung với huyệt Túc
Tam Lý (Vi.36) vì Lao Cung thuộc về Tâm Bào Lạc, tính nó mát
mà hay đi xuống, vì thế nó có tác dụng điều lý được chứng
khí trệ do lao động nặng nhọc gây ra. Lao Cung cũng có tác
dụng làm thư được những nỗi uất kết do thất tình, nội thường
gây nên và nhất là thanh được nhiệt ở vùng ngực và hoành
cách mô, mở đường cho Tâm hỏa đi xuống.dùng chung với huyệt
Túc Tam Lý có tác dụng tả được hỏa của Tâm lẫn Vị, trấn được
nhiệt khí từ dưới xung lên. Các chứng như bứt rứt, phiền
muộn, hay nôn mửa, nôn khan, ợ hơi, ợ chua, nóng mặt, chỉ
thích nằm… mà dùng cách phối 2 huyệt này thì đều có công
hiệu” (Phối Huyệt Khái Luận Giảng Nghĩa).